Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017

Bại não: Bệnh các bà mẹ cần biết

Tin mới

25/04/2017 22:24

Bại não là một thuật ngữ thường dùng để mô tả một nhóm các tình trạng bệnh mạn tính ảnh hưởng đến vận động và sự phối hợp cơ bắp. Bại não do các tổn thương một hoặc nhiều vùng của não, thường xảy ra trong quá trình phát triển của thai nhi trước, trong hoặc sau sinh một thời gian ngắn hay trong thời kỳ trẻ nhỏ.

Bại não là một bệnh không tiến triển, không lây.

Bại não không phải là một rối loạn chỉ do nguyên nhân duy nhất. Đây là một nhóm các rối loạn kiểm soát vận động giống nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau. Bại não bẩm sinh do các tổn thương não xảy ra khi thai nhi còn nằm trong tử cung hoặc trong khi sinh (chiếm 70%).

Nguyên nhân gây bại não:

- Nhau thai bất thường không cung cấp đủ ôxy và chất dinh dưỡng cho thai nhi.

- Bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con.

- Mẹ mắc các bệnh truyền nhiễm trong thai kỳ đầu.

- Trẻ sinh thiếu tháng hoặc thấp cân.

- Thiếu ôxy kéo dài trong khi sinh hoặc vàng da nặng sau sinh.

Các dấu hiệu sớm của bại não thường khởi đầu trước 18 tháng tuổi. Cha mẹ là người đầu tiên nhận thấy trẻ không phát triển được kỹ năng vận động bình thường. Trẻ chậm lẫy, chậm bò, chậm biết đi so với mốc phát triển bình thường. Trẻ bị giảm trương lực cơ: chi mềm nhũn, buông thõng; hoặc tăng trương lực cơ: trẻ cứng đờ hoặc vận động cứng nhắc.

Các dấu hiệu lâm sàng:

- Thể co cứng (chiếm 70%-80%): Các cơ cứng nhắc và co cứng thường xuyên. Co cứng 2 chân hoặc nửa người.

- Thể loạn trương lực (chiếm 10%-20%): Có những vận động bất thường ở 2 chân và 2 tay. Mặt nhăn nhó, nói khó, chảy nước dãi. Các vận động bất thường này mất khi đi ngủ. Ở trẻ lớn biểu hiện: viết chậm, không kiểm soát được động tác.

- Thể thất điều (chiếm 5%-10%): Bước đi khó khăn, loạng choạng, khó thực hiện động tác chính xác. Run tay, chân.

Tùy theo vùng não bị tổn thương mà trên lâm sàng biểu hiện các triệu chứng đa dạng: co cứng, nuốt khó, nói khó, rối loạn tư thế hoặc vận động. Có thể rối loạn chức năng các giác quan: điếc, không ngửi được, giảm thị lực. Đôi khi co giật, chậm phát triển tâm thần, bất thường về hô hấp, rối loạn tiểu tiện.

Chăm sóc và phòng bệnh:

Trẻ cần được chăm sóc phối hợp với sự kết hợp của bác sĩ điều trị, nhân viên vật lý trị liệu, giáo viên, nhân viên công tác xã hội. Điều này cần bắt đầu từ rất sớm ngay khi phát hiện bệnh của trẻ. Điều trị bằng nội khoa, phẫu thuật và phục hồi chức năng giúp cải thiện sự phối hợp động tác cơ và dây thần kinh, phòng ngừa hoặc làm giảm tối thiểu các rối loạn chức năng.

Có nhiều biện pháp phòng bệnh bại não trước sinh. Bà mẹ cần được theo dõi và quản lý thai nghén chặt chẽ. Xét nghiệm yếu tố Rh, dự phòng hậu quả của bất đồng nhóm máu. Nếu có bất đồng nhóm máu thì trẻ phải được thay máu hoặc điều trị vàng da ngay từ những ngày đầu sau sinh. Bà mẹ cần được phát hiện và điều trị các bệnh mạn tính, nhiễm khuẩn đường sinh dục - tiết niệu, tiêm phòng bệnh Rubella trước khi mang thai. Tránh tiếp xúc tia phóng xạ, dùng thuốc và các chất kích thích trong quá trình thai nghén. Người mẹ phải khỏe mạnh trước lúc thụ thai; chăm sóc trước sinh tốt, chế độ dinh dưỡng đầy đủ để tránh sinh non tháng, thấp cân. Bảo vệ trẻ khỏi các bệnh nhiễm trùng và chấn thương sọ não.

Bác sĩ Ngô Văn Tuấn
Source : nld[dot]com[dot]vn

Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017

Những loại thực phẩm không tốt cho xương

Tin mới

23/04/2017 22:26

Chế độ ăn uống có ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của bộ xương chúng ta. Để xương phát triển tốt, bạn nên hạn chế các thức ăn, đồ uống sau đây trong chế độ ẩm thực hằng ngày.

1. Đường

Không ai lại không có cảm giác ngọt ngào do đường mang lại. Thế nhưng, đường glucose lại gây ra những hệ lụy không tốt cho xương. Tại sao lại như vậy? Khi cơ thể phải tiếp nhận một lượng đường quá lớn thì việc hấp thu canxi bị cản trở, giảm lượng phốt pho. Từ đó, xương ít nhận được canxi khiến nó yếu đi.

Cho nên, bạn phải từ bỏ thói quen ăn ngọt (đường glucose), thay vào đó nên ăn nhiều trái cây, củ quả (chứa đường fructose ít gây hại hơn).

2. Muối

Một chế độ ăn có nhiều muối sẽ khiến xương giòn, xốp và dễ gãy. Theo nhiều nghiên cứu, nếu nạp vào cơ thể 2,3 g natri có trong muối ăn hằng ngày thì sẽ làm mất 40 mg canxi trong xương.

Ngoài ra, muối cũng là thủ phạm gây nhiều bệnh như cao huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh thận. Nhóm thực phẩm chứa nhiều muối là cà muối, dưa muối, thức ăn đóng hộp, đồ ăn nhanh, kim chi. Vì vậy, nên tránh ăn nhiều muối để khỏi mắc bệnh.

3. Thức ăn, đồ uống chứa caffein

Cứ mỗi 100 mg thức ăn, đồ uống chứa caffein được nạp vào cơ thể thì bộ xương lại mất đi 6 mg canxi. Khi những thức ăn, đồ uống này được kết hợp với đường thì hậu quả của nó gây ra với bộ xương càng tăng gấp nhiều lần.

Tuy nhiên, caffein cũng có những mặt lợi của nó cho sức khỏe, như uống cà phê trước một buổi tập thể dục làm tăng tiêu mỡ trong cơ thể. Vì vậy, không nên thái quá hay bất cập.

4. Soda

Nếu bạn uống 7 ly soda hoặc nhiều hơn mỗi tuần sẽ khiến mật độ khoáng chất trong xương bị suy giảm, làm tăng nguy cơ bị gãy xương do trong soda có chứa axít phosphoric ngăn cản quá trình hấp thu canxi của cơ thể nên xương dễ bị loãng.

5. Thức uống chứa cồn

Việc uống rượu bia gây hại cho sức khỏe đã được biết đến từ lâu. Rượu bia (nhất là rượu mạnh) sẽ khiến mật độ xương bị suy giảm, làm xương xốp, rỗng và tăng nguy cơ bị gãy xương. Các chuyên gia về sức khỏe khuyến cáo không nên uống quá 1 ly rượu mỗi ngày để tránh xương bị “bệnh”.

6. Dầu hydro hóa

Loại dầu ăn này được sử dụng nhiều trong quá trình sản xuất bánh xốp, bánh quy, bánh nướng hoặc được sinh ra khi chiên, rán thực phẩm. Vì thế, nó tập trung nhiều trong các loại đồ ăn nhanh, chế biến sẵn. Thay vào đó, nên dùng dầu ăn chứa hàm lượng lớn omega-3 như dầu ô liu, dầu hạt lanh, dầu mè, dầu đậu nành để không gây hại cho xương.

Bác sĩ Ngô Văn Tuấn
Source : nld[dot]com[dot]vn

Thứ Hai, 1 tháng 5, 2017

Cách tránh nắng mùa hè

Tin mới

20/04/2017 22:15

Vào mùa hè, thời tiết nóng nực, mọi người từ già đến trẻ ai cũng muốn vùng vẫy trong làn nước biển, hồ bơi, sông suối. Ánh nắng tuy tốt cho sức khỏe nhưng cũng có hại nếu lạm dụng.

Ánh nắng mặt trời có nhiều loại tia, tùy theo bước sóng. Đáng chú ý là tia hồng ngoại và tia cực tím (UV). Phơi nắng nhiều ngoài trời dễ bị tác động của tia hồng ngoại làm da cháy nắng, phỏng nắng. Bên cạnh đó, da còn bị ảnh hưởng bởi tia UV. Tắm nắng tốt nhất là vào mùa hè, từ 6-8 giờ, lúc này ánh nắng sẽ biến tiền vitamin D ở da thành vitamin D hấp thu vào cơ thể giúp chống còi cọc ở trẻ em, cố định canxi ở xương, làm xương chắc khỏe và phòng ngừa loãng xương. Ngoài ra, các bệnh nhân lao cũng được khuyên phơi nắng buổi sáng để diệt các vi khuẩn lao mà họ ho khạc ra ngoài không khí.

Tia UV có 2 loại: UVA và UVB. Tia UVB được ADN của tế bào hấp thu và gây rối loạn cho hiện tượng nhân đôi dẫn đến đột biến. Nếu biến đổi không quan trọng, tế bào sẽ có khả năng phục hồi các tổn thương. Nếu các biến đổi trầm trọng, tế bào mất khả năng sửa chữa và các đột biến sẽ truyền lại cho các tế bào con. Khi các đột biến liên quan đến các gien ức chế ung thư, các gien kiểm soát sự tăng sinh tế bào thì đó là bước khởi đầu cho hiện tượng ung thư hóa.

Tia UVA không được ADN hấp thu nhưng nó tác động tạo ra các phân tử độc hại cho tế bào. Tia UVA tạo ra các gốc tự do, gia tăng sự lão hóa và nguy cơ mắc ung thư. Vì vậy, cần tránh ánh nắng có hại bằng cách:

- Vào những lúc trời nắng gắt, khoảng 11-16 giờ, phải tìm bóng râm để nghỉ. Không cho trẻ em chạy chơi ngoài nắng, phơi mình ngoài trời, tắm trong nước có ánh nắng rọi vào.

- Áo quần là phương tiện bảo vệ cơ thể chống lại các tia UV, chống ánh nắng mặt trời, là phương pháp hữu hiệu hơn các sản phẩm chống nắng khác trên thị trường. Áo màu trắng ít hút ánh nắng hơn áo màu đậm nên mặc dễ chịu hơn. Tuy nhiên, áo màu đậm chống tia UV tốt hơn.

- Các phụ kiện cần trang bị là kính mát, đặc biệt là kính chống tia UV để bảo vệ mắt. Đội mũ rộng vành để che mặt, cổ, ót. Sử dụng các loại kem, dầu chống nắng, đặc biệt là các loại chống được tia UV.

- Dùng những thực phẩm mát như nước rau má, nước bí đao, cà chua, dưa hấu; thức ăn giàu vitamin E như giá đỗ, đậu nành…

Bác sĩ Ngô Văn Tuấn
Source : nld[dot]com[dot]vn

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

60% người được khảo sát không uống đủ lượng nước cần thiết hàng ngày

Tập đoàn dinh dưỡng toàn cầu Herbalife vừa công bố kết quả khảo sát về dinh dưỡng cân bằng tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Cuộc khảo sát tập trung nghiên cứu các vấn đề về dinh dưỡng, thói quen, thái độ và hành vi chăm sóc sức khỏe của người tiêu dùng từ 18 tuổi trở lên. Cuộc khảo sát là một phần trong Hành trình Sức khỏe Châu Á Thái Bình Dương lần thứ 7 của Herbalife, được tổ chức nhằm mục đích khuyến khích cộng đồng theo đuổi những thói quen dinh dưỡng lành mạnh và phát huy hiệu quả của lối sống này đối với sức khỏe.

Theo kết quả của cuộc khảo sát, 64% người tiêu dùng Việt Nam hàng ngày đang ăn ít hơn một nửa lượng rau củ quả so với nhu cầu được khuyến nghị, 60% người không uống đủ nước, 7% không dành đủ thời gian để tập thể dục. Có đến 47% người tiêu dùng tại Việt Nam tin rằng động cơ hấp dẫn nhất để theo đuổi chế độ dinh dưỡng cân bằng là nhằm đảm bảo cơ thể được cung cấp đủ chất dinh dưỡng và thực hiện tối ưu các chức năng. 


Source : laodong[dot]com[dot]vn

Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

Tin mới

18/04/2017 22:08

Nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ thuộc ĐH Mason (bang Virginia) nêu triển vọng bào chế dạng kháng sinh mới có khả năng đối phó với vi khuẩn đã kháng thuốc kháng sinh từ máu của rồng komodo.

Trong công trình được đăng tải trên tạp chí NPJ Biofilms and Microbiomes, nhóm nghiên cứu khảo sát một peptide tên gọi VK25 trong máu của rồng komodo, phát hiện tính chất kháng khuẩn và ngăn ngừa hình thành màng sinh học - là cơ thể vi sinh gồm hàng loạt vi khuẩn dính vào nhau để phát triển và cùng tự bảo vệ. Hai amino acid trong VK25 được họ thiết kế lại nhằm tạo công hiệu mạnh hơn và cho ra phiên bản peptide tổng hợp mới được đặt tên là DRGN-1.

Komodo là loài bò sát khổng lồ sinh sống tự nhiên tại một số đảo thuộc Indonesia. Ảnh: TNT

Komodo là loài bò sát khổng lồ sinh sống tự nhiên tại một số đảo thuộc Indonesia. Ảnh: TNT

Tiếp theo đó, họ thử nghiệm DRGN-1 trên chuột có vết thương bị nhiễm 2 dòng vi khuẩn đã kháng thuốc kháng sinh là Pseudomonas aeruginosa và Staphylococcus aureus. Họ nhận thấy DRGN-1 đã phá hủy màng sinh học ở vết thương trước khi tiêu diệt vi khuẩn và khiến vết thương mau lành. Nhóm nghiên cứu hy vọng peptide tổng hợp DRGN-1 có thể là chất liệu ban đầu dẫn tới việc bào chế một loại kháng sinh mới có thể tiêu diệt các loại vi khuẩn đã kháng thuốc ở con người.

Trúc Lâm
Source : nld[dot]com[dot]vn

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Trái bơ giúp giảm mỡ máu, hạ huyết áp

Tin mới

16/04/2017 21:11

Nghiên cứu tổng kết của các nhà khoa học Iran thuộc ĐH Y khoa Mashhad mới được công bố trên tạp chí Phytotherapy Research nêu khả năng dùng thường xuyên trái bơ có thể giúp trị liệu hội chứng chuyển hóa.

Nhóm nghiên cứu đã xem xét dữ liệu của nhiều thử nghiệm trên thực tế, trong phòng thí nghiệm và lâm sàng, phát hiện khả năng chữa trị chứng rối loạn lipid máu của trái bơ. Họ dẫn chứng một khảo sát điển hình cho thấy việc thêm trái bơ vào bữa ăn hằng ngày trong một tuần có thể giúp kéo giảm đáng kể mức độ cholesterol tổng, cholesterol xấu (LDL) và triglyceride.

Nghiên cứu nêu khả năng hạ mỡ máu, hạ huyết áp từ việc dùng trái bơẢnh: MEDICAL DAILY
Nghiên cứu nêu khả năng hạ mỡ máu, hạ huyết áp từ việc dùng trái bơẢnh: MEDICAL DAILY

Một khảo sát khác cho thấy những người dùng trái bơ hằng ngày trong 6 tháng có thể trọng, chỉ số thể hình (BMI) và tỉ lệ mỡ trong cơ thể giảm đáng kể. Vài khảo sát cũng cho thấy việc dùng trái bơ có thể giúp hạ huyết áp ở người cao huyết áp và hạn chế tình trạng xơ vữa động mạch. Ngoài ra, một khảo sát được công bố hồi năm 2014 đã phát hiện việc dùng dầu chiết xuất từ lá bơ cũng có thể giúp hạn chế mức độ cholesterol xấu và hạ huyết áp.

Nhóm nghiên cứu cho rằng các thành phần trong trái bơ có thể giúp điều chỉnh quá trình trao đổi chất, hấp thu có chọn lọc và thủy phân lipoprotein tại những mô khác nhau như ở gan và tụy. Thành phần làm nên hoạt tính sinh học mang lại lợi ích trong trái bơ gồm các carotenoid, axít béo và những khoáng chất như canxi, kali, sắt, kẽm.

Trúc Lâm
Source : nld[dot]com[dot]vn

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Phòng bệnh khi đi bơi

Tin mới

13/04/2017 21:28

Nắng nóng khiến nhiều người chọn giải pháp đi bơi. Trước khi đi bơi, bạn hãy đọc qua bài này.

1. Bệnh phụ khoa

Môi trường trung gian của nước bể bơi khiến bạn dễ mắc các bệnh phụ khoa. Trong nước bể bơi có thể có các mầm bệnh như vi khuẩn, nấm sẵn sàng gây hại cho vùng kín của bạn. Chưa kể đến trường hợp có những người mang trong mình các bệnh phụ khoa dễ lây như nấm âm đạo, lậu đến bể bơi thì nguy cơ lây nhiễm cho các người khác là điều khó tránh. Các bệnh phụ khoa nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ để lại các biến chứng nguy hiểm.

2. Bệnh hen (suyễn)

Theo các nhà nghiên cứu người Bỉ, nếu bơi tại các bể bơi chứa nhiều clo, chất tẩy trùng nước bể bơi sẽ có nguy cơ cao mắc bệnh suyễn, nhất là trẻ nhỏ.

3. Viêm tai, tiêu chảy, bệnh mắt, bệnh ngoài da

Nước là môi trường lý tưởng để ký sinh trùng gây tiêu chảy cryptosporidum sinh sống. Loại ký sinh trùng này gây tổn thương tế bào biểu mô dạ dày, ruột và đường hô hấp. Bên cạnh đó, các mầm bệnh có trong bể bơi có thể gây cho bạn các căn bệnh về mắt, tai và da như đau mắt đỏ, viêm tai giữa và viêm da mãn tính. Để phòng tránh bệnh, bạn phải tránh nước bể bơi vào miệng, súc miệng sau khi đi bơi bằng nước muối sinh lý và cũng rửa mắt, nhỏ mắt bằng các dung dịch sát trùng thích hợp có bán ở các quầy thuốc tây. Nhớ dùng tampon để thấm hết nước trong tai, tránh nguy cơ nước ứ đọng ở tai sẽ gây viêm nhiễm.

4. Nguyên tắc an toàn bơi

- Chọn lựa bể bơi an toàn về chất lượng nước. Không bơi ở bể có quá đông người. Không bơi ở bể bơi có nước tù đọng và không thay nước hay được khử trùng thường xuyên.

- Không đi bơi khi đang mắc bệnh phụ khoa, bệnh ngoài da hoặc đang bị tiêu chảy, đau mắt, viêm tai hay vào những ngày “đèn đỏ”.

- Trước khi xuống bể bơi, nên tắm bằng nước sạch. Sau khi bơi xong, nên tắm kỹ lại bằng sữa tắm, xà phòng và gội đầu bằng dầu gội, dầu xả.

- Sau khi bơi nhớ vệ sinh vùng kín bằng dung dịch chuyên biệt.

- Khi đi bơi nhớ mang theo kính bơi, mũ bơi, mặc đồ bơi.

- Khởi động từ 20-30 phút trước khi xuống bể bơi.

- Trước khi bơi không ăn quá no và nên uống đủ nước.

BS Ngô Văn Tuấn
Source : nld[dot]com[dot]vn